Tiếng Việt Nam

Thiên cổ đệ nhất tài nữ Trung Quốc—Lý Thanh Chiếu

criPublished: 2021-06-04 12:33:55
Share
Share this with Close
Messenger Pinterest LinkedIn

Cha của Lý Thanh Chiếu là Lý Cách Phi, ông là nhà văn hồi bấy giờ, mẹ bà là con gái của trạng nguyên, rất giỏi sáng tác văn học. Sinh ra và lớn lên trong gia đình mang đậm bầu không khí văn học, ngay từ nhỏ, Lý Thanh Chiếu đã khác mọi người. Năm 18 tuổi, bà gả cho đại học sĩ Triệu Minh Thành, hai vợ chồng bà đều thích gảy đàn chơi cờ, đam mê thư pháp và sáng tác văn học, vợ chồng ân ái gia đình đầm ấm hạnh phúc. Ông Triệu Minh Thành chồng bà là học giả Kinh Thạch, sáng tác cuốn“Kinh thạch lục”.

Thế nhưng tháng ngày tươi đẹp không bao lâu, vì phải tội bọn quan quyền quý tộc, cho nên cha Lý Thanh Chiếu bị bãi miễn chức quan. Gia cảnh họ Triệu bị suy sụp. Vợ chồng Lý Thanh Chiếu đành phải rời khỏi đô thị, trở về quê hương của Triệu Minh Thành, hai vợ chồng sống hoàn cảnh đạm bạc, an nhàn và thiếu thốn.

Năm 1127, triều đình Bắc Tống bị diệt vong, hai vợ chồng Lý Thanh Chiếu đành phải phiêu bạt đó đây, về sau hai người dừng chân lại tại Kiến Khang – cũng tức là thành phố Nam Kinh tỉnh Giang Tô ngày nay. Năm 1129, Triệu Minh Thành lâm bệnh rồi qua đời tại Kiến Khang. Sau khi chồng qua đời, một mình Lý Thanh Chiếu lại phiêu bạt đến các nơi Đài châu, Ôn Châu, và Kim Hoa, sống khổ sở thê lương trong những năm cuối đời.

Cuộc đời của Lý Thanh Chiếu chia làm hai giai đoạn lấy năm 1127 thời Nam Bắc Tống làm mốc. Trước khi xuống miền Nam, tác phẩm của bà chủ yếu là miêu tả phong cảnh thiên nhiên, bày tỏ tình yêu chân thành, mang phong cách thanh thoát mỹ miều, hồn thơ văn của bà đều mượt mà. Sau khi xuống phía nam sông Trường Giang, thương cảm trước thân phận và hạnh phúc bị mất mát lại thêm phải đương mặt với thảm họa dân tộc, cho nên tác phẩm của bà trong giai đoạn này thường mang phong cách đau xót cho thời cuộc, thương nhớ quê hương, thương cảm trầm uất.

Tác phẩm của Lý Thanh Chiếu trong giai đoạn trước chủ yếu mang đề tài bịn rịn quang cảnh mùa xuân, không nữa chia tay và cuộc đời của người con gái son trẻ, thể hiện tính cách đa sầu đa cảm của nhà viết từ nữ. Ví dụ bài từ“Như mộng lệnh”:

Thường ký khô đình nhật mộ,

Thẩm túy bất chi quy lộ.

Hưng tận vãn hồi châu,

Ngộ nhập ngẫu hoa thâm chở.

Tranh độ, tranh độ,

Kinh khởi nhất thán âu lộ.

Đại ý bài từ này rằng: Tôi thường nhớ trước đây chúng mình thường dạo chơi bên bờ suối, chơi vui quá quên cả về nhà. Đến khi chập tối mới chèo thuyền ra về, không để ý lái con thuyền vào tận sâu đầm sen. Khua nhanh mái chèo, không ngờ một đàn chim nước trên mặt hồ bị mái chèo khuấy động và âm thanh tiếng nói làm chúng sợ hãi liền cất cánh bay lên không trung.

Những bài từ của Lý Thanh Chiếu bày tỏ nỗi niềm nhớ nhung khi chồng xa nhà, những bài từ này của bà thường mang tình cảm đậm đà, cấu tứ mới mẻ, được lưu truyền muôn thuở. Ví dụ như bài từ có câu:

Thử tình vô kế khả tiêu trừ,

Tài hạ mi đầu,

Khước thượng tâm đầu.

Có nghĩa là: Nỗi nhớ nhung này không thể xóa nhoà, đôi mày nhíu lại vừa giãn ra, lại lún sâu vào con tim.

Tác phẩm từ của Lý Thanh Chiếu trong giai đoạn sau thường tràn trề những điệu nặng về“vật vẫn còn đây mà người đâu còn, tất cả như đã mất hết thảy”, bày tỏ nỗi lòng đậm đà niềm thương nhớ và nỗi niềm xót xa đối với quê hương, đối với chuyện xưa. Lý Thanh Chiếu là tác giả nữ hiếm có trên lịch sử văn học thời cổ Trung Quốc. Phong cách các tác phẩm của bà thanh nhã, giàu tình cảm, chi tiết cụ thể dễ đi sâu vào lòng người. Những bài thơ của bà còn để lại không nhiều, nhưng những bài thơ còn lại đó của bà khác hẳn những bài từ uyển chuyển hàm xúc, mà là mang phong cách hào phóng, lo cho đất nước, lo cho nhân dân.

Trên đây Sảnh Hoa vừa giới thiệu với quý vị và các bạn Thiên cổ đệ nhất tài nữ Trung Quốc—Lý Thanh Chiếu.

首页上一页12 2

Share this story on

Messenger Pinterest LinkedIn